Hướng dẫn thực hiện BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN đối với HLV, VĐV trong thời gian tập trung tập huấn, thi đấu

16/08/2019 07:37 AM



(Ảnh minh họa)

Tham gia BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN (Điểm a Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 152/2018/NĐ-CP)

Cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm tiếp tục đóng BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN theo hợp đồng làm việc cho huấn luyện viên, vận động viên thuộc phần trách nhiệm của mình; đóng BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN thuộc trách nhiệm của người lao động. Tiền lương làm cơ sở đóng BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN là tiền lương theo hợp đồng làm việc của tháng trước liền kề.

Tham gia BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN trong thời gian tập trung tập huấn thi đấu đối với huấn luyện viên, vận động viên quy định tại Điểm b, Điểm c Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 152/2018/NĐ-CP đang tham gia BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN được quy định như sau:

Cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm tiếp tục đóng BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN cho huấn luyện viên, vận động viên thuộc phần trách nhiệm của mình; đóng BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN thuộc trách nhiệm của người lao động. Tiền lương làm cơ sở đóng BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN là tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề.

Cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm thông báo cho cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên biết số tiền phải đóng các chế độ BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN hàng tháng thuộc trách nhiệm của cơ quan quản lý và số tiền phải đóng của người lao động người lao động trong thời gian huấn luyện viên, vận động viên tập huấn, thi đấu, theo nguyên tắc sau:

- Trường hợp thời gian thực tế tập trung, thi đấu trong tháng nhỏ hơn hoặc bằng 50% số ngày làm việc bình thường của tháng theo hợp đồng lao động thì mức thông báo chuyển trả tính bằng 50% số tiền phải đóng các chế độ BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN trong tháng của cơ quan quản lý và của người lao động.

- Trường hợp thời gian thực tế tập trung, thi đấu trong tháng trên 50% số ngày làm việc bình thường trong tháng theo hợp đồng lao động thì mức thông báo chuyển trả tính bằng số tiền phải đóng các chế độ BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN của 01 tháng của cơ quan quản lý và của người lao động.

Khi nhận được thông báo của cơ quản quản lý huấn luyện viên, vận động viên, trong thời hạn 10 ngày làm việc cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm chuyển trả phần kinh phí đóng các chế độ BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động (cơ quan quản lý); đồng thời trích tiền đóng các chế độ BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN thuộc trách nhiệm của người lao động để cùng chuyển trả cho cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên.

Thời gian, hình thức chuyển do cơ quan quản lý và cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên thỏa thuận.

Đối với huấn luyện viên, vận động viên quy định tại điểm b, điểm c Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 152/2018/NĐ-CP trước khi được triệu tập không thuộc đối tượng tham gia BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN thì cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm giao kết hợp đồng lao động và thực hiện các chế BHXH, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN theo quy định của pháp luật.

Đối tượng vận động viên quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 152/2018/NĐ-CP thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Khoản 4, Điều 4 Nghị định số 152/2018/NĐ-CP.

Chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời gian tập trung tập huấn, thi đấu

Chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên khi ốm đau, thai sản trong thời gian tập trung tập huấn, thi đấu thực hiện theo quy định tại Điều 5 Nghị định 152/2018/NĐ- CP.

Chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời gian tập trung tập huấn, thi đấu quy định như sau: Được cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên thực hiện đầy đủ các chế độ quyền lợi theo quy định tại điểm a, điểm b, điểm d và điểm đ, khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 Điều 6 Nghị định 152/2018/NĐ- CP; được cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên trả đủ tiền lương, tiền hỗ trợ theo quy định tại điểm c, Khoản 1 Điều 6 Nghị định 152/2018/NĐ- CP.

Trường hợp hết thời gian tập huấn, thi đấu mà huấn luyện viên, vận động viên vẫn phải tiếp tục nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phát sinh trong thời gian tập huấn, thi đấu thì cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên tiếp tục trả đủ tiền lương, tiền hỗ trợ theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 152/NĐ-CP cho huấn luyện viên, vận động viên cho đến khi điều trị ổn định, nhưng tối đa không quá 06 tháng kể từ ngày xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Nguồn: Tạp chí Bảo hiểm xã hội