25 năm hoàn thiện chính sách, pháp luật BHXH: Bước phát triển vượt bậc trong xây dựng thể chế BHXH

08/01/2020 03:10 PM


Ngày 29/06/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật BHXH và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ 01/01/2008 đối với BHXH tự nguyện và từ 01/01/2009 đối với BHTN. Việc ban hành luật chuyên ngành là bước phát triển vượt bậc trong xây dựng thể chế BHXH, đánh dấu thời kỳ mới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tổ chức thực hiện BHXH theo hiến pháp và pháp luật một cách hiệu quả.

Ngày 29/06/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật BHXH và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ 01/01/2008 đối với BHXH tự nguyện và từ 01/01/2009 đối với BHTN. Việc ban hành luật chuyên ngành là bước phát triển vượt bậc trong xây dựng thể chế BHXH, đánh dấu thời kỳ mới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tổ chức thực hiện BHXH theo hiến pháp và pháp luật một cách hiệu quả.

Các quy định của Luật BHXH về cơ bản được kế thừa từ các quy định hiện hành và có phát triển một số nội dung, đặc biệt là quy định lại loại hình BHXH tự nguyện (bao gồm chế độ hưu trí, tử tuất được quy định liên thông với BHXH bắt buộc) và bổ sung  loại hình bảo hiểm thất nghiệp. Việc quy định cụ thể các chế độ trong  BHXH tự nguyện được liên thông với BHXH bắt buộc đã tạo điều kiện để người dân tham gia và thụ hưởng chế độ hưu trí khi về già, đảm bảo An sinh xã hội về lâu dài. Đặc biệt là việc thiết kế chính sách tuân thủ đúng nguyên tắc đóng - hưởng, có sự chia sẻ theo nhóm đối tượng để bảo đảm khả năng chi trả của Quỹ BHXH (quy định mức tiền lương, tiền công đóng BHXH thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung nhưng tối đa không quá 20 lần mức lương tối thiểu chung nay là mức lương cơ sở đã khắc phục tình trạng mức hưởng BHXH của một số trường hợp cao bất thường trước khi có Luật BHXH). Mô hình tổ chức thực hiện BHXH theo quy định tại Nghị định 94/2008/NĐ-CP, Nghị định 116/ 2011/NĐ-CP và Nghị định số 05/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014, theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BHTN; quản lý và sử dụng các quỹ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHTN, BHYT theo quy định của pháp luật.

Sau hơn 08 năm thực hiện Luật BHXH đã đạt được những thành tựu cơ bản: việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH; tăng diện bao phủ BHXH; tạo điều kiện nhân dân, người lao động có nhu cầu tham gia BHXH đã bảo đảm An sinh xã hội bền vững, tạo sự bình đẳng giữa những người lao động trong các thành phần kinh tế; góp phần thúc đẩy sự phân phối lại lao động một cách linh hoạt theo yêu cầu của thị trường. Nhờ đó, đối tượng tham gia BHXH đã tăng lên đáng kể từ 2,2 triệu người (năm 1995) lên hơn 11 triệu người (năm 2013), tăng gấp 05 lần, từng bước hoàn thiện nguyên tắc đóng - hưởng BHXH, mang ý nghĩa đoàn kết, chia sẻ trong cộng đồng, là sự bảo đảm thay thế cho người lao động nhằm giải quyết rủi ro trong cuộc sống khi ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm cũng như khi đến tuổi già không còn khả năng lao động.

Quỹ BHXH được hình thành độc lập với ngân sách nhà nước trên cơ sở đóng góp chủ yếu của người sử dụng lao động, người lao động, đã giải quyết cơ bản sự bao cấp của Nhà nước đối với Quỹ BHXH; Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch; số thu BHXH ngày càng tăng; số tiền nhàn rỗi của Quỹ BHXH được đầu tư theo đúng quy định để bảo toàn, tăng trưởng quỹ.

Các loại hình BHXH đã phát triển đa dạng hơn gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHTN. Đặc biệt, việc bổ sung loại hình BHXH tự nguyện và có quy định liên thông với BHXH bắt buộc đã tạo điều kiện để người dân tham gia, thụ hưởng chế độ hưu trí khi về già, đảm bảo An sinh xã hội về lâu dài; các Quỹ BHXH hiện tại đảm bảo cân đối thu - chi và có số dư. Riêng Quỹ Hưu trí, tử tuất dự báo trong tương lai sẽ mất cân đối nếu không có điều chỉnh về chính sách.

Chính sách BHXH đã được ban hành khá đầy đủ, cụ thể và phù hợp với tình hình hiện nay; các văn bản hướng dẫn thực hiện, quy định về thủ tục thực hiện được ban hành tương đối đầy đủ, kịp thời và đảm bảo từng bước đơn giản hóa, tạo điều kiện để người tham gia và thụ hưởng chính sách thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ ngày càng tốt hơn.

Mô hình cơ cấu tổ chức và chức năng của BHXH Việt Nam được kiện toàn phù hợp với cơ chế quản lý hoạt động BHXH. Công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động chung của BHXH Việt Nam đã được đổi mới kịp thời, sát thực tế, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, phục vụ tốt hơn đối tượng tham gia và thụ hưởng chính sách.

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn có những tồn tại, khó khăn, vướng mắc: Số người tham gia BHXH còn thấp so với số người thực tế phải tham gia BHXH; tình hình trốn đóng, nợ đọng BHXH còn phổ biến, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH chưa sâu rộng, thiếu đa dạng và chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng. Chính sách BHXH còn có nội dung chưa phù hợp, một số nội dung mới nảy sinh trong thực tiễn chưa được kịp thời bổ sung. Một số địa phương chưa quan tâm đúng mức trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn; sự phối hợp giữa cơ quan BHXH với các cơ quan liên quan chưa chặt chẽ. Việc xác định số lượng đơn vị và số lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc còn nhiều bất cập do chưa có quy định cụ thể cơ quan nào chịu trách nhiệm  cung cấp thông tin về số lương doanh nghiệp thành lập, giải thể, phá sản, ngừng hoạt động, bỏ trốn cũng như việc xác định và cung cấp số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, trong khi việc phối hợp cung cấp thông tin để xác định đối tượng này giữa các cơ quan còn rất hạn chế ảnh hưởng đến việc quản lý và thực hiện chính BHXH đối với người lao động, đặc biệt nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trốn đóng BHXH đối với toàn bộ lao động trong đơn vị thì người lao động bị thiệt thòi nhất khi về già không được hưởng BHXH do chủ sử dụng trốn đóng BHXH. Một số quy định trong Luật BHXH chưa có hướng dẫn cụ thể nên khó khăn trong tổ chức thực hiện; Tổ chức BHXH chỉ có quyền kiểm tra, không có chức năng thanh tra, xử phạt nên khi phát hiện sai phạm, thẩm quyền chỉ dừng lại ở việc ra văn bản yêu cầu đơn vị thực hiện đúng quy định. Trong khi công tác thanh tra chưa thường xuyên, chế tài xử lý vi phạm còn nhẹ chưa đủ sức buộc người sử dụng lao động tuân thủ pháp luật BHXH.

Để khắc phục tình trạng này, BHXH Việt Nam đã chủ động đánh giá tổng kết việc thi hành Luật BHXH trên phạm vi cả nước, trên cơ sở tổng kết đánh giá ở tất cả các địa phương, các bộ, ngành, các tổ chức đoàn thể kịp thời phát hiện những bất cập, những vấn đề mới phát sinh trong tổ chức thực hiện, tổng hợp trình Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật BHXH (sửa đổi) nghiên cứu, xây dựng Dự thảo báo cáo Quốc hội xem xét theo chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội.

Ngày 20/11/2014, Luật BHXH sửa đổi đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 8, gồm 09 Chương, 125 Điều, quy định chế độ, chính sách BHXH; quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHXH, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động; cơ quan BHXH; Quỹ BHXH; thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH, ghi nhận thành tích trong quá trình cải cách, đổi mới liên tục gần 20 năm qua, từng  bước xây dựng, hoàn thiện thể chế BHXH làm căn cứ pháp lý để tổ chức thực hiện BHXH đối với mọi người lao động góp phần bảo đảm An sinh xã hội.

Luật BHXH (sửa đổi) mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc gồm: người lao động có hợp đồng lao động 1-3 tháng, người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động được cơ quan thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Chính phủ và người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn. Luật hóa một số nhóm đối tượng đã được thực hiện theo các quy định hiện hành, gồm học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;

Đối với BHXH  bắt buộc bổ sung thêm nhiều quyền lợi cho người lao động quy định trong chế độ thai sản, chế độ hưu trí nhằm vừa bảo đảm nguyên tắc đóng – hưởng , vừa đảm bảo an sinh cho người lao động,  giảm gánh nặng từ ngân sách nhà nước. BHXH tự nguyện bỏ quy định tuổi trần tham gia BHXH tự nguyện, bỏ quy định mức thu nhập đóng BHXH tự nguyện thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung (nay là mức lương cơ sở) để phù hợp với khả năng tham gia của người dân, quy định người tham gia có thể lựa chọn phương thức đóng BHXH tự nguyện một cách linh hoạt ngoài các phương thức đã quy định lần này cho phép có thể đóng một lần cho nhiều năm về sau hoặc một lần cho những năm còn thiếu để hưởng chế độ BHXH tự nguyện. Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khả năng ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ và thời điểm thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện.

Bổ sung Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chính sách BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm mục tiêu bổ sung cho chế độ hưu trí trong BHXH bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động dưới hình thức tài khoản tiết kiệm cá nhân, được bảo toàn và tích lũy thông qua hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật. Các chế độ bảo hiểm hưu trí bổ sung do Chính phủ quy định (đây là chính sách mới trên cơ sở vừa nghiên cứu vừa tổ chức thực hiện sẽ có rất nhiều vấn đề thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết trong thời gian tới).

Luật BHXH (sửa đổi) quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm; nâng mức xử phạt chậm nộp BHXH; giao cho cơ quan BHXH chức năng  thanh tra về đóng BHXH, BHYT, BHTN và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Đồng thời, quy định rõ hơn trách nhiệm của người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động, tổ chức công đoàn, Mặt trận Tổ quốc và các thành viên, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHXH để đảm bảo tính tuân thủ pháp luật về BHXH làm căn cứ thực hiện mục tiêu mà Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020 và Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về Cải cách chính sách BHXH đã đề ra./.

Tạp chí Bảo hiểm xã hội