Thực hiện chính sách, pháp luật BHTN - Vấn đề đặt ra

12/06/2020 08:40 AM


Thất nghiệp, dù được quan niệm theo nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng đều để lại những hậu quả khôn lường về kinh tế và xã hội cả giác độ cá nhân và toàn bộ nền kinh tế. Về mặt xã hội, thất nghiệp còn gây ra những tổn hại về mặt tinh thần và sức khỏe cho người lao động.

(Ảnh minh họa)

Tác động mạnh từ dịch bệnh

Do tác động của dịch Covid-19, theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), với hàng chục triệu doanh nghiệp ngừng sản xuất hoặc phá sản, toàn thế giới có thể có thêm 25 triệu lao động sẽ bị mất việc làm, phải hưởng trợ cấp thất nghiệp. Như vậy, với số thất nghiệp có sẵn 188 triệu người thì có thể có  từ 193 đến 213 triệu người thất nghiệp tính đến cuối năm 2020. Cũng theo tính toán của ILO, các biện pháp phong tỏa một phần hoặc toàn diện của Chính phủ các nước nhằm ngăn chặn lây lan của Covid-19, nhưng  đã ảnh hưởng tới 2,7 tỷ người lao động, tức 81% lực lượng lao động toàn cầu. Bản báo cáo nhanh mới được ILO công bố  cho thấy số giờ làm việc trên thế giới sẽ giảm 6,7% trong quý II năm nay, tương đương 195 triệu người lao động làm việc toàn thời gian.
Do tác động của Covid-19, các doanh nghiệp sẽ giảm nhu cầu sử dụng lao động, giảm giờ làm, kéo theo là nhiều triệu lao động bị thất nghiệp và bị mất đi nguồn thu nhập lớn. Ước tính, toàn thế giới, người lao động sẽ bị giảm thu nhập khoảng từ 860 tỷ USD đến 3,4 nghìn tỷ USD trong năm 2020. Khi thu nhập giảm, sức mua sẽ giảm, sẽ dẫn tới giảm tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, từ đó tác động ngược trở lại tới triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp và các nền kinh tế.

Vấn đề đặt ra với thực hiện BHTN

Dịch Covid-19 để lại hệ lụy nặng nề về mặt xã hội, thậm chí còn lâu dài hơn hệ lụy đối với kinh tế. Các nhà tâm lý học Mỹ đã phân tích mức độ căng thẳng về tinh thần của con người qua một số sự kiện thì thấy rằng mất việc làm gây ra căng thẳng thần kinh người lao động chỉ xếp thứ ba sau sự kiện vợ/chồng chết và bị đi tù. Thất nghiệp dẫn đến suy giảm rất lớn cả về thể chất lẫn tâm sinh lý, gây ra rất nhiều chứng bệnh xã hội như trầm cảm, nghiện hút, nghiện rượu,... từ đó gây ra các hậu quả xã hội khác như nạn bạo lực, bất mãn xã hội, tan vỡ cấu trúc dân số, cấu trúc gia đình... Nhiều người thất nghiệp đã phải tự kết thúc cuộc đời mình vì không thể chịu đựng được sự túng quẫn. Hậu quả, Nhà nước lại phải tăng các chi phí cho hệ thống an sinh xã hội quốc gia.

Như đã nêu trên, Covid-19 đã làm gia tăng tình trạng thất nghiệp, gia tăng người hưởng trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên, cần hiểu rõ bản chất của thất nghiệp thì mới ứng phó hiệu quả.Vậy thất nghiệp là gì và ai được gọi là người thất nghiệp? Vấn đề tưởng rất đơn giản nhưng lại được lý giải chưa được đồng nhất. Theo ILO “Thất nghiệp là việc ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được một việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc” (ILO, 1952).

Trong các chỉ tiêu thống kê Việt Nam, khái niệm “người thất nghiệp”, được hiểu là những người từ đủ 15 tuổi trở lên mà trong thời kỳ tham chiếu hội đủ các yếu tố sau: (i) hiện không làm việc; (ii) đang tìm kiếm việc làm; (iii) sẵn sàng làm việc. Như vậy, người nào chưa hội đủ 03 yếu tố này, chưa chắc đã được coi là người thất nghiệp và lẽ đương nhiên họ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp (kể cả đã tham gia BHTN hay không).Khái niệm này của Việt Nam khá tương đồng với khái niệm của ILO về người thất nghiệp.
Cũng theo cách hiểu trên, người thất nghiệp còn gồm những người hiện không có việc làm và sẵn sàng làm việc nhưng trong thời kỳ tham chiếu không tìm được việc do:
- Đã chắc chắn có một công việc hoặc một hoạt động sản xuất kinh doanh để bắt đầu sau thời kỳ tham chiếu;
- Phải tạm nghỉ (không được nhận tiền lương, tiền công hoặc không chắc chắn quay lại làm công việc cũ) do cơ sở bị thu hẹp hoặc ngừng sản xuất;
- Đang trong thời gian nghỉ thời vụ;
- Bận việc đột xuất của gia đình hoặc ốm đau tạm thời.
Khi người lao động bị thất nghiệp, Nhà nước phải chi trả các trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên, chi trả trợ cấp thất nghiệp thế nào hiện có nhiều quan điểm khác nhau. Nếu Chính phủ thiết kế các mức trợ cấp cao dễ làm gia tăng thì tỷ lệ thất nghiệp và gia tăng thời gian người lao động đi tìm việc, do người lao động ỷ lại vào trợ cấp thất nghiệp, không tích cực tìm việc. Điều này lại làm thị trường lao động sẽ diễn biến phức tạp hơn, đồng thời làm tăng thêm “gánh nặng” của Quỹ BHXH và BHTN. Ngược lại, khi mức trợ cấp thất nghiệp thấp, người lao động tuy có tích cực đi tìm việc làm hơn, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm đi, nhưng những người thất nghiệp lại có nguy cơ rơi vào cảnh túng quẫn hơn do số tiền trợ cấp thất nghiệp không giải quyết được vấn đề kinh tế của bản thân và gia đình người lao động. Vì vậy, cân bằng được hai yếu tố Kinh tế và Xã hội luôn là bài toán nan giải đối với các nhà hoạch định chính sách.
Để giảm bớt số người thất nghiệp và hạn chế hậu quả của thất nghiệp, các nhà kinh tế lao động đề ra hai nhóm giải pháp sau:
-  Nhóm giải pháp tích cực: Đó là các giải pháp nhằm tác động vào thị trường lao động, để tạo ra nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Liên quan đến các giải pháp này là vấn đề đầu tư để phát triển kinh tế thông qua các dự án phát triển, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Có thể nói đầu tư là biện pháp tích cực nhất để tăng số chỗ làm việc trong nền kinh tế. Tuy nhiên để đầu tư tốt cần phải có môi trường đầu tư bao gồm hoàn thiện luật pháp, chính sách ưu đãi đầu tư,... Ngoài ra, để hấp thụ đầu tư, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực dài hạn, đặc biệt là vấn đề đào tạo, đào tạo lại để nâng cao chất lượng, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động. Khi người laođộng đã tích lũy được vốn (vốn con người), họ sẽ tích cực tham gia vào thị trường lao động.
- Nhóm giải pháp thụ động: Đây là nhóm giải pháp hỗ trợ người lao động, nhằm tạo điều kiện cho người lao động tham gia được vào thị trường lao động hoặc có cơ hội quay trở lại thị trường lao động. BHTN là một trong các biện pháp hỗ trợ này. BHTN, một mặt hỗ trợ cho người lao động khi họ bị mất việc làm thông qua các trợ cấp thất nghiệp; mặt khác, BHTN tạo điều kiện và cơ hội cho người lao động quay trở lại thị trường lao động.
Theo Luật Việc làm (2014), BHTN là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ BHTN. Bản chất của BHTN là hỗ trợ người lao động cả về tài chính và/hoặc các điều kiện vật chất khác trong thời gian mất việc làm nhằm tạo điều kiện cho họ nhanh trở lại với thị trường lao động. Phần bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm (thất nghiệp) được gọi là trợ cấp thất nghiệp. Theo Công ước 102 của ILO (1952), trợ cấp thất nghiệp là một hình thức BHXH nhằm đảm bảo chi trả một khoản trợ cấp tối thiểu trong một thời gian giới hạn cho những cá nhân bị thất nghiệp mà không do lỗi của họ, gây ra việc mất thu nhập mà họ và gia đình họ dựa vào đó.  Như vậy, có thể thấy trợ cấp thất nghiệp chỉ là một trong những hỗ trợ (về tài chính) của BHTN và cũng chỉ những người có tham gia BHTN (đóng góp vào Quỹ BHTN) thì mới được hưởng trợ cấp thất nghiệp.Đây có thể nói là có sự “đan chéo” về mặt về mặt pháp lý. Ở  một số nước, đôi khi trợ cấp thất nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật BHXH; trong khi đó ở một số nước khác, trong đó có Việt Nam, trợ cấp thất nghiệp lại được điều chỉnh trong Luật Việc làm. Vì vậy, trong thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động cần làm rõ trợ cấp thất nghiệp và tiền hỗ trợ thất nghiệp. Người lao động tham gia BHTN có thể được hưởng cả trợ cấp thất nghiệp và tiền hỗ trợ thất nghiệp, nhưng những người không/chưa tham gia BHTN (nhất là lao động tự làm, lao động ở khu vực phi chính thức) thì cần và sẽ được hưởng tiền hỗ trợ thất nghiệp từ các gói trợ giúp của nhà nước.
Ở Việt Nam, song song với các gói hỗ trợ các doanh nghiệp để duy trì sản xuất, Chính phủ đã có gói hỗ trợ 62 ngàn tỷ để hỗ trợ các nhóm đối tượng bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, trong đó có nhóm đối tượng bị thất nghiệp. Đây chính là những hỗ trợ, như đã nêu trên, là tiền hỗ trợ thất nghiệp mà người lao động đã hoặc chưa tham gia BHTN đều có thể được thụ hưởng.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, để hỗ trợ người lao động một cách bền vững khi có những biến cố như Covid-19 và những trường hợp tương tự, rất cần thiết xây dựng hệ thống BHTN vững mạnh. Ngoài trợ cấp thất nghiệp cần rất chú trọng hỗ trợ đào tạo lại, đào tạo nghề nghiệp mới và giới thiệu việc làm, nhằm tạo điều kiện cho người lao động sớm trở lại thị trường lao động. Việc này cần được làm thường xuyên, có tính hệ thống, tạo khả năng thích ứng cho người lao động chứ không chỉ là việc làm nhất thời.  
Về mặt pháp luật, cần khắc phục tình trạng “đan chéo” giữa hai luật như hiện nay. Trợ cấp thất nghiệp phải là một hình thức trợ cấp BHXH và nên được điều chỉnh bởi Luật BHXH và thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, có sự chia sẻ. BHTN chỉ nên tập trung vào những vẫn đề hỗ trợ thất nghiệp, trong đó đặc biệt là vấn đề đào tạo, đào tạo lại cho người lao động bị thất nghiệp. Mặt khác, cần có cơ chế chính sách để thúc đẩy đào tạo nghề tại chỗ (On the Job Training) tại doanh nghiệp để nhanh chóng đào tạo lại nghề cho doanh nghiệp, nhằm giữ chân lao động, giảm thiểu việc sa thải lao động trong thời kỳ này, đảm bảo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp sau những biến cố. Bên cạnh đó, về mặt quản lý, cần nâng cao chất lượng hệ thống đăng ký, theo dõi người thất nghiệp để vừa đảm bảo quyền lợi cho người hưởng trợ cấp, đồng thời ngăn chặn được tình trạng trục lợi bảo hiểm.

Tài liệu tham khảo
1. GSO (2020), Tình hình kinh tế -  xã hội Quý I/2020.
2. ​ILO (2020), Báo cáo đánh giá sơ bộ “Covid-19 và thế giới việc làm: Tác động và giải pháp”, Genevo
3. Popp, A. (2017), Unemployment Insurance in a three State Model of the labor Market, Journal of Monetary Economics.
4. Mạc Văn Tiến (2005), An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực, NXB Lao động - Xã hội.
5. Samuelson (1991), Kinh tế học, Viện quan hệ quốc tế.

Tạp chí Bảo hiểm xã hội